Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã nới room tín dụng cho các tổ chức tín dụng, nhưng thực tế con số này rất nhỏ so với nhu cầu của của thị trường bất động sản. Vì vậy, cần phải có định chế tài chính riêng biệt giúp thị trường phục hồi, tăng trưởng trở lại.
Hiện nay, khó khăn trong việc cấp phép dự án mới và khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn đã khiến nguồn cung giảm mạnh ở tất cả các phân khúc. Trong đó: 6 tháng đầu năm chỉ có khoảng 12.000 nhà ở thương mại được hoàn thành. Tính riêng quý I chỉ có thêm 39 dự án nhà ở thương mại mới được chấp thuận đầu tư, 56 dự án đủ điều kiện bán nhà hình thành trong tương lai.
Tương tự với bất động sản gắn du lịch, nghỉ dưỡng, do lượng hàng tồn tại từ các năm trước nên trong 6 tháng đầu năm rất ít dự án du lịch, nghỉ dưỡng được triển khai, hoàn thành. Tính riêng quý I chỉ có 01 dự án hoàn thành, 52 dự án đang triển khai. 05 dự án được chấp thuận đầu tư mới.
Nguồn cung hạn chế trong nhiều năm trong khi nhu cầu không giảm đã khiến giá bất động sản tăng cao ở tất cả các phân khúc. Cộng thêm tâm lý lo ngại lạm phát đã khiến giới đầu tư tăng cường mua bất động sản nhằm tích trữ tài sản.
Giá căn hộ chung cư đã tăng bình quân khoảng 5 –7%, đạt mức từ 25 - 50 triệu đồng/m2, thậm chí có dự án đạt mức giá trên 100 triệu đồng/m2. Giá nhà ở riêng lẻ trong dự án cũng tăng trung bình 15 - 20%. Giá đất nền tăng 20 - 30% so với thời điểm cuối năm 2020.
Kịch bản tăng giá cũng diễn ra với bất động sản du lịch nghỉ dưỡng với mức tăng trung bình hơn 9%. Trong đó, shophouse tăng khoảng 11%; condotel tăng khoảng 9%
Trong các nguyên nhân trên, có thể thấy việc “đói vốn” là một cản trở lớn, nhất là trong chu kỳ phục hồi mạnh mẽ. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư vào thị trường bất động sản từ tín dụng ngân hàng và trái phiếu doanh nghiệp dù được nới room vẫn chưa thể có sự đột phá.
Số liệu thống kê của Hiệp hội bất động sản Việt Nam, nguồn cung các dự án lần đầu vào thị trường năm 2018 khoảng 200 nghìn sản phẩm mới, năm 2019 hơn 100 nghìn sản phẩm, năm 2020 và 2021 giảm xuống 60 nghìn sản phẩm và 2 quý đầu năm 2022 chỉ còn hơn 20 nghìn sản phẩm... được xem là sản phẩm chính của thị trường, trong khi đó sản phẩm không chính thống là đất nền được tung vào thị trường cao hơn gấp 1,5 lần sản phẩm chính. Đây chính là nguyên nhân mà các ngân hàng buộc phải “phanh” vốn đổ vào bất động sản.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường bất động sản đang gặp phải 2 trở ngại lớn, đó là vấn đề liên quan đến pháp lý và nguồn vốn đầu tư. Riêng đối với câu chuyện pháp lý, sau một loạt các luật được sửa đổi, bổ sung, hiện nay dự thảo về Luật Đất đai (sửa đổi) cũng đã hoàn thành, dự kiến trình Quốc hội thông qua vào tháng 10 tới đây, và sẽ chính thức ban hành trong năm 2023 nhằm tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc cho thị trường; còn lại là câu chuyện tháo gỡ vướng mắc để khơi thông nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp.
Số liệu thống kê của Hiệp hội BĐS Việt Nam, nguồn cung các dự án lần đầu vào thị trường năm 2018 khoảng 200 nghìn sản phẩm mới, năm 2019 hơn 100 nghìn sản phẩm, năm 2020 và 2021 giảm xuống 60 nghìn sản phẩm và 2 quý đầu năm 2022 chỉ còn hơn 20 nghìn sản phẩm... được xem là sản phẩm chính của thị trường, trong khi đó sản phẩm không chính thống là đất nền được tung vào thị trường cao hơn gấp 1,5 lần sản phẩm chính. Đây chính là nguyên nhân mà các ngân hàng buộc phải “phanh” vốn đổ vào BĐS.
“Tuy nhiên, đối với việc hạn chế nguồn vốn vào BĐS khiến các chủ đầu tư đang triển khai dự án, sắp hoàn thành lập tức cũng bị dừng lại không hoạt động, không có tiền thanh khoản chi trả cho công nhân, nhà thầu, nhà cung cấp... Việc này dẫn đến hệ lụy, đặc biệt xảy ra nguy cơ không có sản phẩm trả cho khách hàng và có thể bị khách hàng kiện... Thị trường đã khó khăn do rào cản của pháp luật, đến cả những chủ đầu tư ra khỏi rào cản bắt đầu chạy lại phải cũng dừng do trục trặc nguồn vốn” - Phó Chủ tịch Hiệp hội BĐS Việt Nam Nguyễn Văn Đính cho hay.
Ngoài ra, ông Nguyễn Văn Đính cũng cho rằng, Ngân hàng Nhà nước hiện đã nới room tín dụng cho một số tổ chức tín dụng, nhưng chỉ vài trăm nghìn tỷ đồng, con số này không thấm tháp gì với thị trường BĐS. Tuy nhiên, cần cân nhắc các dòng vốn, xem xét cấp vốn với những dự án sắp hoàn thành để dự án tiếp tục hoạt động, mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp, xã hội và nền kinh tế. Bên cạnh đó, cần tạo nhiều kênh đầu tư hiệu quả trên thế giới đã mà chúng ta chưa sử dụng, như: Quỹ đầu tư, quỹ ủy thác, quỹ tín thác...
Còn theo chuyên gia tài chính - ngân hàng, TS Cấn Văn Lực, từ đầu năm đến nay thị trường BĐS gặp nhiều khó khăn nhưng tín dụng BĐS vẫn tăng tích cực khoảng 14%, trong đó tín dụng với phân khúc nhà ở tăng 17% và BĐS đầu tư tăng trên 8%. Hiện tín dụng cho vay BĐS chiếm 20,6% tổng dư nợ toàn bộ nền kinh tế, với mức này vẫn còn dư địa để tiếp tục cho vay, vì các quốc gia khác trên thế giới thông thường chiếm 28 - 30% tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng.
“Theo tôi, cần nghiên cứu để có một số định chế tài chính chuyên biệt cho BĐS, ví dụ như quỹ đầu tư phát triển nhà ở. Về lâu dài, cần phát triển chứng khoán hóa BĐS, nghĩa là có BĐS và lấy đó làm tài sản thế chấp, phát hành trái phiếu. Nhưng thời điểm hiện tại, để thị trường BĐS Việt Nam phát triển bền vững, việc đầu tiên phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, vì nếu lạm phát tăng thì sẽ gây biến động mạnh, doanh nghiệp sẽ rất khó khăn. Cùng với đó, thúc đẩy chương trình phục hồi kinh tế, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công” - TS Cấn Văn Lực phân tích.
Bất động sản dành cho bạn